Trình bày tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, thể thơ, nội dung, ý nghĩa, biện pháp nghệ thuật của mỗi đoạn của bài thơ một thứ quà của lúa non:cốm
Trình bày tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, thể thơ, nội dung, ý nghĩa, biện pháp nghệ thuật của các bài thơ sau:
1, Qua đèo ngang
2, Bánh trôi nước
3, Bạn đến chơi nhà
4, Tiếng gà trưa
TIẾNG GÀ TRƯA:
-phong cách thơ:hồn nhiên,dung dị,trữ tình,trong trẻo,khao khát yêu thương
-NT:thể thơ năm chữ tự do,có sự biến đổi linh hoạt,hình ảnh thơ gần gũi,giản dị,giọng điệu bồi hồi,tha thiết, lắng đọng,điệp từ,gợi hình gợi cảm
-ND:tình yêu bà,yêu làng quê của nhà thơ làm sâu sắc thêm tình yêu qh,đất nc
-YN:nhấn mạnh tình yêu qh,đất nc của mỗi con người đều bắt nguồn từ những thứ nhỏ nhất và những thứ xung quanh mik
#MIK CHỈ LM BÀI NÀY THUI THÔNG CẢM#
cái này vào sách giáo khoa có mà bạn :D
Trình bày những hiểu biết của anh/chị về bài thơ “Tỏ lòng” (Tác giả; tác phẩm: hoàn cảnh sáng tác, thể thơ, bố cục; nội dung; nghệ thuật; ý nghĩa...)
Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi bên dưới
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh,
cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
a. Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Quê hương. Hoàn cảnh này có ý nghĩa thếnào đến nội dung của tác phẩm
b. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp nghệ thuật có trong đoạn thơ trên.
c. Câu thơ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá thuộc kiểu hành động nói nào d. Trong đoạn thơ trên, tác giả thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá . Em hiểu thế nào về mùi nồng mặn mà tác giả nhắc tới trong câu thơ
- Xác định tên tác giả - tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, phương thức biểu đạt, thể loại, giải nghĩa từ, giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của các văn bản "Cảnh khuya";"Qua đèo ngang";"tiếng gà trưa";"Một thứ quà của lúa non: cốm" - Cảm nhận bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan qua bài “Qua Đèo Ngang”. - Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc và tình cảm của Bác Hồ qua bài thơ “Cảnh khuya” - Văn bản “Một thứ quà của lúa non: Cốm”: chú ý phân tích nguồn gốc hình thành của cốm và tình cảm trân trọng, nâng niu của nhà văn đối với thức quà riêng biệt của đất nước. - Phân tích giá trị phép điệp ngữ, quan hệ từ, đại từ trong văn bản“Tiếng gà trưa”, văn bản “Cảnh khuya” MONG CÁC BẠN LÀM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN =))
Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!"
(Tế Hanh, Quê hương)
a. Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Quê hương. Hoàn cảnh này có ý nghĩa thế
nào đến nội dung của tác phẩm?
b. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp nghệ thuật có trong đoạn thơ trên.
c. Câu thơ "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!" thuộc kiểu hành động nói nào?
d. Trong đoạn thơ trên, tác giả thấy nhớ "cái mùi nồng mặn quá". Em hiểu thế nào về
"mùi nồng mặn" mà tác giả nhắc tới trong câu thơ?
Trình bày đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ'Mưa'.
Trong bài thơ 'Mưa',hãy xác định biện pháp nghệ thuật nhân hóa và tác dụng của biện pháp nghệ tuật nhân hóa đó.
Qua bài thơ'Mưa', em hiểu tác giả là người ntn?
giúp mình với mình cần gấp ạ! mình cảm ơn rất nhiều!
nội dung
Bài thơ đã miêu tả chính xác và sinh động cảnh vật thiên nhiên trước và trong cơn mưa rào ở làng quê. Bài thơ thể hiện tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên một cách hồn nhiên, tinh tế, độc đáo của tác giả; và qua đó cho ta thấy tình yêu thiên nhiên, làng quê của Trần Đăng Khoa
nghệ thuật
- Thể thơ tự do
- Nhịp thơ ngắn, nhanh
- Sử dụng phép nhân hóa
Tác dụng của phép nhân hóa: Gọi tên con vật, cây cối, đồ vật,... bằng từ ngữ với được dùng để gọi hoặc tả người.
- Qua đó thấy được nỗi gian truân, cực nhọc của đời mẹ không thể thay đổi, bù đắp… (nếu thay bằng các từ: ngấm, thấm,... thì nỗi vất vả chỉ thoảng qua, có thể tan biến đi...)
1.1/
1/ Văn bản nhật dụng : Cổng trường mở ra; Mẹ tôi; cuộc chia tay của những con búp bê.
- Tên tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, thể loại.
-Chi tiết
-Nội dung, nghệ thuật
2/Ca dao, dân ca : Những câu hát về tình cảm gia đình, Những câu hát than thân
Nội dung nghệ thuật của từng bài
3/Văn bản trung đại Việt Nam : Sông núi nước Nam, Bánh trôi nước, Qua Đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Phò gia về kinh.
-Tác giả, tác phẩm, thể thơ
-Nội dung, nghệ thuật
4/Văn học hiện đại Việt Nam: Cảnh khuya, Tiếng gà trưa, Một thứ quà của lúa non: Cốm
-Tác giả, tác phẩm, thể loại
-Nội dung, nghệ thuật
MONG MỌI NGƯỜI GIÚP, AI BIẾT CÂU NÀO CỨ TRẢ LỜI MÌNH SẼ CẢM ƠN TỪNG BẠN GIÚP MÌNH
1. Cổng trường mở ra
Tác giả: Lý Lan
Thể loại: Văn bản nhật dụng viết theo thể kí.
Hoàn cảnh sáng tác (xuất xứ) :được in trên báo Yêu trẻ, số 166, ngày 1-9-2000
Ngôi kể thứ nhất (xưng "mẹ"). Tác dụng: giúp những cảm xúc, suy tư của người mẹ được truyền tải một cách tự nhiên hơn, chân thật hơn và cảm động hơn.
Giá trị nội dung: Như những dòng nhật kí tâm tình, nhỏ nhẹ và sâu lắng, bài văn giúp ta hiểu thêm tấm lòng yêu thương, tình cảm sâu nặng của người mẹ đối với con và vai trò to lớn của Nhà trường đối với cuộc sống của mỗi người.
Giá trị nghệ thuật:Lựa chọn hình thức tự bạch, như những dòng nhật kí tâm tình, thủ thỉ của mẹ đối với conNgôn ngữ giàu sức biểu cảm, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc
hãy nêu tên tác giả ,tác phẩm, thể loại, hoàn cảnh sáng tác, phương thức biểu đạt: thuộc thơ, giá trị nội dung nghệ thuật chủ yếu của :
-Bài học đường đời đầu tiên
-Cây tre Việt Nam
-Lượm
- Bài học đường đời đầu tiên:
+ Tên tác giả: Tô Hoài
+ Tác phẩm: Dế mèn phiêu lưu kí
+ Thể loại: Truyện
+ Hoàn cảnh sáng tác: Trước cách mạng tháng Tám 1945
+ Phương thức biểu đạt: tự sự
bài học đường đời đầu tiên
tác giả ; Tô Hoài
tác phẩm : DẾ mèn phiêu lưu kí
hoàn cảnh sáng tác : cách mạng tháng tám 1945
phương thức biểu đạt : Tự sự , Miêu tả
thể loại : Truyện dài
bài cây tre vn
tác giả : Thép Mới
thể loại : Kí
hoàn cảnh sáng tác : Viết năm 1955
phương thức biểu đạt :Phương thức biểu đạt chính của bài Cây tre Việt Nam: miêu tả, biểu cảm, nghị luận.
cảnh khuya , rằm tháng riêng , tiếng gà trưa : tác giả , hoàn cảnh sáng tác ,thể thơ , nội dung , nghệ thuật , biện pháp tu từ nêu tác dụng
Bài thơ được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, in lần đầu trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968) của Xuân Quỳnh